Cây mắc ca: Chỉ trồng 10.000 héc ta chứ không phải 200.000 héc ta
Do mắc ca
là cây trồng mới, quá trình khảo nghiệm còn cho nhiều kết quả khác
nhau, vì vậy Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNT) chưa đủ căn
cứ để phê duyệt quy hoạch cây mắc ca mà chỉ định hướng trồng 10.000 héc
ta tới năm 2020 tại những vùng đã khảo nghiệm thành công.
Định hướng 10.000 héc ta đến năm 2020
Đây là nội dung trong báo cáo 2748 của Bộ NNPTNT do Thứ trưởng Hà
Công Tuấn ký gửi Thủ tướng Chính phủ trong ngày hôm nay 6-4. Như vậy, số
diện tích cây mắc ca mà Bộ NNPTNT cho phép trồng thấp hơn rất nhiều so
với kỳ vọng của nhiều doanh nghiệp là 200.000 héc ta trong 5 năm tới.
Theo báo cáo này, cây mắc ca được trồng thử nghiệm ở Việt Nam từ năm 1994
và các khảo nghiệm giống cây mắc ca đã được triển khai tại 16 tỉnh; đến
nay đã xây đựng dược 20 mô hình khảo nghiệm giống, với tổng diện tích
là 35 héc ta, trong đó, có 30 héc ta đã ra quả.
Kết quả nghiên cứu khảo nghiệm ban đầu cho thấy, cây mắc ca có khả năng
sinh trưởng và phát triển ở các vùng khảo nghiệm nhưng với tỷ lệ đậu quả
và sản lượng khác nhau. Với những cây trồng 10 năm tuổi, một số vùng
cho sản lượng cao nhất từ 17,5 đến 21,5 kg/cây (tương đương 3,9 đến 4,7
tấn/héc ta/năm); thấp nhất là từ 1,9 đến 2,5 tấn/héc ta/năm; một số nơi
không đậu quả. Trên cơ sở đó, Bộ đã công nhận được 10 giống cây mắc ca
Bên cạnh đó, Bộ cũng đã thực hiện nhiều dự án như “Trồng sản xuất thử
nghiệm một số giống cây mắc ca mới tại Tây Nguyên, Tây Bắc” năm 2011 trên
diện tích khoảng 40 héc ta; “Trồng thâm canh cây cây mắc ca tại Tây Bắc và
Tây Nguyên” năm 2012 với khoảng gần 480 héc ta; đồng thời các tổ chức,
cá nhân tại các địa phương trong cả nước đã trồng được gần 2.000 héc ta
cũng tại Tây Bắc và Tây Nguyên.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Tuấn cho rằng, cây mắc ca là cây mới, trong quá
trình khảo nghiệm cho các kết quả khác nhau, đồng thời, vẫn chưa có một
báo cáo phân tích kỹ các vấn đề về chế biến và thị trường; do đó Bộ
NNPTNT chưa đủ căn cứ để đưa ra quy hoạch cây cây mắc ca, quy trình kỹ thuật
nhân giống, trồng, chăm sóc, công nghệ chế biến… Song, Bộ NNPTNT sẽ
nghiên cứu và ban hành những văn bản trên trong năm 2015.
Trước mắt, để hạn chế rủi ro cho các tổ chức, cá nhân và doanh
nghiệp, Bộ NNPTNT chỉ đạo các địa phương hướng dẫn người dân trồng ở
những nơi khảo nghiệm thành công, không triển khai trồng trên quy mô lớn
tại những nơi chưa được trồng khảo nghiệm hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần tổ chức đánh giá khảo nghiệm tại các địa phương, xác
định cụ thể quy hoạch chi tiết từng vùng khí hậu đối với mắc ca. “Việc
phát triển cây mắc ca theo quy mô lớn nhất thiết phải đảm bảo điều kiện gắn
với cơ sở chế biến, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm” – trích văn bản.
Theo đó, tổng diện tích định hướng tới năm 2020 là 10.000 héc ta bao
gồm cả trồng tập trung và xen canh thay vì đề xuất 200.000 héc ta như
tham vọng của các nhà khoa học và doanh nghiệp trước đó.
Quyết định này của Bộ NNPTNT được đưa ra trong bối cảnh lo ngại về
việc phát triển ồ ạt “cây tỉ đô” sẽ dẫn tới thất bại như những cây trồng
trước đó. Đặc biệt, chỉ cách đây vài ngày, Bộ đã tổ chức họp với các
nhà khoa học, cơ quan quản lý… và họ đều thống nhất chưa nên mở rộng
diện tích mắc ca một cách ồ ạt.
Tại buổi họp đó, TS Hà Huy Thịnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giống
và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp cho rằng, trước mắt, chỉ nên tập trung
phát triển ở những vùng có đặc điểm sinh thái thực sự phù hợp và có năng
suất cao như Đăk Lăk, Sơn La; ưu tiên phát triển trồng xen với cà phê,
chè.
Nhiều nhà khoa học tại buổi họp cho rằng, trước khi trồng trên diện rộng cần phải trả lời các câu hỏi: mắc ca Việt Nam
có cạnh tranh được với mắc ca các nước hay không? Nếu trồng thì cần làm
rõ trồng ở đâu, trồng bao nhiêu, giống gì, trồng như thế nào và tiêu
thụ ra sao, lợi nhuận thế nào? Liệu mắc ca có cạnh tranh hơn so với các
cây đã có sẵn như cà phê, tiêu, chè hay không?
Bên cạnh đó, Bộ trưởng NNPTNT Cao Đức Phát cho hay, mắc ca cũng là
cây á nhiệt đới, mà vùng khí hậu á nhiệt đới trên thế giới rất nhiều chứ
không chỉ riêng Việt Nam. Trong khi đến nay, chưa có thông tin nào cho
thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh với các nước khác về mắc ca, mà cụ
thể là Úc và Mỹ, những thành viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), những nước đã sản xuất mắc ca rất lâu.
Truyền thông thế giới đều nói tốt về mắc ca, các số liệu thống kê
cũng cho thấy nguồn cung mắc ca ở nhiều nước đang tăng chóng mặt, có nơi
trên 10%/năm. Trong khi đó, thông tin dự báo tin cậy về nhu cầu lại
chưa rõ ràng. “Theo quy luật giá tăng thì nguồn cung sẽ tăng, đến một
lúc nào đó cung sẽ cao hơn cầu, giá hạ, và một số nước không có lợi thế
sẽ buộc phải rời cuộc chơi. Nước rời cuộc chơi sẽ là nước không có lợi
thế về điều kiện tự nhiên, giá thành cao, chất lượng thấp” – Bộ trưởng
Phát nói
Theo thesaigontimes